Các bệnh thường gặp ở chó
Chó non là giai đoạn phát triển khó khăn nhất, chúng rất rễ mắc phải các bệnh truyền nhiễm nếu như chúng ta không có cách chăm sóc đúng cách, vì chúng có sức đề kháng rất yếu lại trong giai đoạn cần nhiều dinh dưỡng để phát triển chúng có thể ăn rất no hoặc hay đi cắn bậy ăn bậy dẫn đến rối loạn tiêu hóa làm cơ thể suy yếu là cơ hội cho các bệnh truyền nhiễm xâm nhập.
Các bệnh thường gặp ở chó
I.Bệnh Parvovirus ở chó?
Parvovirus rất hay xảy ra, lây lan nhanh và gây tử vong cao với chó non dưới một năm tuổi, đặc biệt chó chưa được tiêm phòng bệnh bằng vaccine.
Bạn thấy chó của bạn có các triệu chứng như sau không?
1. Có tiêu chảy liên tục không? Phân có máu hoặc bốc mùi khó chịu không?
2. Có biểu hiện lừ đừ, mỏi mệt không?
3. Chó đang khoẻ mạnh, hoạt bát bỗng dưng chỉ nằm ủ rũ suốt ngày?
4. Chó có nôn liên tục suốt ngày không?
5. Có biểu hiện mất nước không?
6. Có biếng ăn hoặc ăn bỏ ăn không?
Nếu có bất kỳ triệu chứng nào kể trên, bạn hãy cẩn thận!
Pavovirus xảy ra trầm trọng với phần lớn chó non, nhưng chó trưởngthành cũng vẫn có thể mắc bệnh này. Can thiệp sớm vẫn có thể điều trị được, nếu không điều trị, tỷ lệ tử vong trên 80% chó chết vì bệnh Parvo.
Do chủ nuôi chó chưa hiểu biết về bệnh Pavo nên để chó của mình quá muộn không điều trị, bệnh xảy ra nhanh và chó thường chết sau 48-72 giờ kể từ khi có những triệu chứng đầu tiên.
1.Giới thiệu
Nguyên nhân gây bệnh được xác định do một loại virus có tên Canine parvovirus (CPV) gây ra, được xác định lần đầu tiên vào năm 1978. Và trong vòng hai năm nó đã lan rộng trên toàn thế giới. Trong những năm qua, Parvovirus chó đã đột biến thành hai chủng khác nhau và có bằng chứng của một hiện chủng thứ ba tại Ý, Tây Ban Nha và Việt Nam. Hiện tại, chủng gây bệnh phổ biến nhất toàn thế giới là CPV-2b.
Bệnh thường được biết đến với hai biểu hiện quan trọng là viêm ruột-xuất huyết gây tiêu chảy phân có lẫn máu, niêm mạc đường tiêu hóa và viêm cơ tim.
2.Đặc điểm:
Mỗi loài động vật khác nhau có virus parvo riêng của nó và nó không có sự lan truyền bệnh ngoài loài, do đó mới có virus parvo gây bệnh ở người, virus parvo chó, virus parvo mèo, parvo lợn…Parvovirus chó là một virus rất nhỏ, bao gồm một lớp vỏ protein và một sợi ADN duy nhất. Tuy nhiên virus này đã chứng tỏ sức mạnh đặc biệt của nó là lây nhiễm mạnh và nhanh chóng phân chia tế bào trong các tế bào chủ như các tế bào đường ruột, tủy xương, hệ bạch huyết và các tế bào của thai.
Virus này không được bao bọc trong một lớp chất béo như nhiều virus khác nên chúng có một khả năng chống chịu đặc biệt với nhiều môi trường khắc nghiệt. Chúng rất ổn định trong nhiều môi trường và có thể chịu được một khoảng pH rộng và nhiệt độ cao. Chúng còn có khả năng chống một số chất sát trùng nhẹ và tồn tại trong vài tháng ở các khu vực ô nhiễm.
Chó trên 6 tháng tuổi thường có một đề kháng tự nhiên với Parvovirrus. Nhiều con trong số này chỉ biểu hiện tiêu chảy thoáng qua. Chó 1-2 năm tuổi có thể bị bệnh nhưng thường rất nhẹ và thường không đáng chú ý.
Một lý do không rõ, Doberman Pinchers, Rottweilers..thường dễ suy sụp bởi bệnh này.
3.Cách lây lan và sinh bệnh
Mặc dù các virus không thể lây từ mèo qua chó hoặc từ chim cho mèo…, nhưng có thể lây virus qua tiếp xúc. Virus này tồn tại trên quần áo, thức ăn, sàn nhà, lồng nuôi có thể đến 5 tháng và lâu hơn trong các điều kiện thuận lợi nên việc thăm viếng, vuốt ve cũng là một nguy cơ lớn để bệnh lây lan. Côn trùng và động vật gặm nhấm cũng có thể là vector truyền bệnh đóng vai trò quan trọng.Sự lây lan bệnh qua đường ruột là chủ yếu do con vật nuốt phải mầm bệnh. Số lượng virus nhiễm vào cơ thể cũng rất cần thiết, đó cũng là một yếu tố để gây bệnh lâm sàng. Việc tiếp xúc với chó mang virus ở tần số và cường độ cao cũng làm tăng khả năng mắc bệnh này.
Ban đầu virus khu trú trong các mô bạch huyết ở cổ họng, từ đó vào máu. Các triệu chứng ở đường ruột xảy ra khi virus tấn công tủy xương, nhanh chóng phân chia tế bào và khu trú trong đường ruột và các hạch bạch huyết, gây tổn thương và hoại tử tế bào.
4.Các thể bệnh và triệu chứng
Triệu chứng thường biếu hiện trong vòng 3-10 ngày kể từ ngày nhiễm bệnh. Bao gồm: mệt mỏi, ủ rũ, bỏ ăn, nôn mửa, sốt và các triệu chứng điển hình của mỗi thể bệnh.
4.1.Thể tim:
Các mẫu tim bị nhiễm trùng thường được tìm thấy trong chó đang bị nhiễm bệnh hoặc chó con ngay sau khi sinh. Đây là hình thức của bệnh rất ít phổ biến so với thể đường ruột. Bệnh thường rất nặng, làm viêm và hoại tử cơ tim gây khó thở và chết non (<8 tuần) của chó. Chó con tồn tại được sẽ có sẹo trong cơ tim.Thể bệnh này có thể hoặc không đi kèm với các dấu hiệu và triệu chứng của thể đường ruột. Tuy nhiên thể này bây giờ đã hiếm thấy trên thế giới.
4.2.Thể đường ruột:
Virus gây thiệt hại nghiêm trọng đến đường ruột. Virus phân chia trong các tế bào biểu mô ruột, gây hoại tử bong tróc các tế bào niêm mạc vì thế gây tiêu chảy – xuất huyết. Niêm mạc thường theo phân ra ngoài, hợp lại với các chất khác tạo ra một mùi hôi tanh khó chịu.Điều này có thể để mở cửa cho nhiễm trùng thứ cấp khi các vi khuẩn đường ruột như Salmonella, C. perfringens, E. coli, Campylobacter, coronavirrus và các ký sinh trùng khác có thể xâm nhập vào mạch máu nhiều hơn qua những vùng niêm mạc bị bong tróc. Kích hoạt một qua trình nhiễm trùng thứ cấp nghiêm trọng.
Hầu hết chó bị ảnh hưởng (85%) ở lứa tuổi 6-20 tuần tuổi. Có ý kiến cho rằng tỷ lệ tử vong khoảng 91% và nếu được điều trị đúng mức thì tỷ lệ sống sót có thể đến 80-95%.Bệnh thường có triệu chứng tiêu chảy nặng gây mất nước, điện giải, máu và nhiễm trùng thứ cấp. Do đó, con vật có biểu hiện vô thần, sụt cân nhanh, đau đớn, shock do mất máu…Chó thường sẽ không chết do virus, nhưng thường chết do nhiễm trùng thứ cấp.
5.Chẩn đoán
– Chẩn đoán lâm sàng: chẩn đoán bệnh trước tiên phải là khám lâm sàng, xác định độ tuổi, giống và tình trạng tiêm chủng đề loại trừ.
– Lấy mẫu phân để làm phản ứng ELISA: các phương pháp ELISA có thể thực hiện ở ngày đầu tiên của bệnh cho đến 3 hoặc 4 ngày sau đó. Các phương pháp ELISA có thể là âm tính giả nếu chạy quá sớm trong quá trình bệnh.
– Có thể bổ sung việc chẩn đoán máu: Giảm bạch cầu hoặc lympho bào thường biểu hiện trong hầu hết các chó bị bệnh này. Trong đó, giảm bạch cầu là một gợi ý quan trọng. Ngoài ra hạ albumine, natri, kali và clo máu cũng có thể biểu hiện.
– Có thể bổ sung việc chụp X-quang: radiographs thường giúp phân biệt bệnh với các nguyên nhân khác có ói mửa và tiêu chảy.Tuy nhiên việc bắt tay vào điều trị ngay từ khi con vật được nghi ngờ mắc bệnh và chưa có các kết quả về chẩn đoán phi lâm sàng là điều nhất quyết phải làm.
6.Điều trị
Trên thế giới hiện nay chưa có thuốc đặc trị để loại bỏ virus nên việc điều trị chỉ mang tính giảm triệu chứng, hổ trợ đề kháng cho con vật bệnh và phòng trị nhiễm trùng thứ cấp. Mục đích cuối cùng của điều trị bệnh này là giúp con vật sống một thời gian đủ để cơ thể của nó tạo ra một phản ứng miễn dịch. Tỷ lệ sống còn phụ thuộc vào sự chẩn đoán đúng và nhanh chóng được điều trị.
– Nên ngừng cho ăn và ống trong thời gian con vật chưa có dấu hiệu hồi phục. Sau đó cho ăn nhẹ (nếu con vật có thể ăn được), nên cho ăn nhữn thức ăn dễ tiêu như tinh bột, thịt gà… liên tục đến 7-14 ngày sau đó là tốt nhất để giảm bớt tối đa có thể những rủi ro.
– Điều trị ban đầu thông thường là truyền dịch, giúp bù đắp, cân bằng lại nước và chất điện gải, đồng thời bổ sung năng lượng.
– Ngoài việc truyền dịch, việc chống buồn nôn, chống tiêu chảy, cầm máu và chích thuốc kháng sinh là điều cấp thiết.
– Việc tiêm kháng huyết thanh chỉ có ý nghĩa khi bệnh đang khởi phát.- Chống shock do mất máu cũng là điều rất đáng quan tâm.
– Sự chăm sóc đúng cách sẽ đưa lại tiên lượng tốt hơn, nhưng nếu chăm sóc không hợp lý, chó sẽ chết rất nhanh (môi trường dưỡng bệnh không tốt, tắm khi con vật đang ốm, cho ăn uống không theo chỉ định,… ).
Sự thành công trong điều trị bệnh này phần lớn là do sức sống-sức chống chọi với bệnh tật của con vật. Tuy nhiên phần còn lại là do Bác sỹ thú y.
Bác sỹ thú y sẽ đưa ra một phác đồ điều trị phù hợp với từng trường hợp con vật bệnh. Nếu không làm đúng một số nguyên tắc thì đôi khi sẽ làm cho con vật chết nhanh hơn.
7.Phòng bệnh
Hầu hết Bác sỹ thú y sẽ đề xuất cho chó con được tiêm phòng bệnh do parvovirus khoảng tám tuần tuổi. Ở Việt nam, vaccine này thường có sẵn trong vaccine đa giá. Tiêm nhắc lại sau một tháng và hằng năm.
Người nuôi chó không nên tiêm phòng bệnh quá sớm cho chó con vì không đủ khả năng để đáp ứng miễn dịch.
Việc phòng bệnh băng cách không cho tiếp xúc với mầm bệnh thường không đem lại hiệu quả cao.
7.1.Phòng bệnh:
Tiêm phòng cho chó lúc 6 tuần tuổi tiêm mũi 1 và 9 tuần tuổi tiêm mũi 2 bằng vaccine phòng 7 bệnh ( Vanguard Plus 5/CV-L của Mỹ ) Hoặc Vaccine (Recombitek C6/CV ) là 2 loại vaccine hàng đầu hiệu quả cao nhất để phòng các bệnh sau:
1 – Bệnh Carre
2 – Bệnh do Parvovisus
3 – Viêm gan truyền nhiễm
4 – Bệnh ho cũi chó
5 – Bệnh phó cúm
6 – Bệnh do Leptospira
7- Bệnh do Coronavirus
7.2.Điều trị:
Bệnh chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, khi chó bệnh thì phải cách ly để tránh lây nhiễm sang chó khỏe khác và đưa chó đến các phòng mạch Thú y để được hướng dẫn điều trị.
Có thể sử dụng một trong các loại thuốc kháng sinh trị nhiễm khuẩn kế phát
Do chó bị tiêu chảy nhiều, nên truyền dịch Glucose 5% bù đắp nước và chất điện giải để chó mau hồi phục.
II. Bệnh dại
1.Triệu chứng:
1.1.Thể điên
Sau thời gian ủ bệnh chó lên cơn điên dữ dội: mắt đỏ ngầu, chảy dãi như bọt xà bông quanh mép, không còn cảm giác, lao vào mọi người kể cả chủ nó và các con vật khác để cắn xé. Thời kỳ này chó bỏ ăn hoặc nhai nuốt tất cả vật gì mà nó gặp trên đường đi. Chó sủa có tiếng khàn khàn hoặc rú lên từng hồi ghê rợn khác hẳn với trạng thái bình thường. Vài ngày sau đó chó bỏ nhà đi hoặc rúc vào bờ bụi, xó tối và chết trong trạng thái gầy rạc, kiệt sức, bại liệt vơí những vết thương rớm máu trên thân thể do tự cắn xé.
Bệnh tiến triển trong vòng 2- 5 ngày chó suy kiệt rồi chết.
1.2.Thể bại liệt
Đầu tiên chó thể hiện các trạng thái bất thường: ngơ ngác, bồn chồn, đi lại, ăn ít hoặc bỏ ăn. Sau đó chó lặng lẽ chui vào một xó tối nằm im, do đó gọi là thể dại im lặng hoặc thể dại câm, khác hẳn với thể điên cuồng. Vài ngày sau, chó bị liệt chân, liệt hàm, không thể há mồm ra được nhưng nước dãi vẫn chảy quanh mép như bọt xà phòng. Sau khi phát bệnh từ 3 – 5 ngày, chó chết trong trạng thái bại liệt hoàn toàn.
Chó bị mắc bệnh dại: buồn rầu, bị bại liệt một phần hoặc nửa người, hàm trễ, lưỡi thè, chỉ gầm gừ trong họng, không sủa được.
Thể này rất nguy hiểm vì người ta không nghĩ đến bệnh dại và mấy ngày đầu chó có thể cắn chủ nhà khi đến chăm sóc nó. Thể bại liệt chiếm 20 – 30% số chó bị bệnh dại.
2.Phòng bệnh:
Bệnh dại rất nguy hiểm vì hiện nay không có thuốc điều trị đặc hiệu. Ở nước ta việc phòng chống bệnh dại đã đưa thành chương trình quốc gia phòng chống bệnh dại. Trong đó qui định tất cả chó, mèo nuôi đều phải được tiêm phòng dại và lập lại định kỳ hằng năm.
3.Điều trị:
Nhằm tránh sự lây truyền bệnh dại, khi bị chó mèo cắn cần thực hiện các biện pháp sau:
Rửa sạch vết thương bằng xà bông, sau đó sát trùng lại bằng cồn. Không dùng các phương pháp phòng bệnh dân gian như lấy nọc, uống thuốc nam…
Đến ngay trạm Vệ sinh phòng dịch gần nhất tiêm vaccin phòng chống bệnh dại. Trường hợp vết cắn gần vùng đầu hoặc vết thương quá sâu phải tiêm phòng bằng kháng huyết thanh dại trước khi tiêm phòng bằng vaccine. Trường hợp cần thiết có thể tiêm thêm vaccine phòng uốn ván theo chỉ định của cơ quan y tế.
Chó, mèo cắn người phải được đem đến cơ quan thú y để chẩn đoán theo dõi xem có bị dại hay không. Tuyệt đối không được giết chết chó, mèo cắn người- khi chưa xác định là có mắc bệnh dại hay không.
III. Bệnh viêm dạ dày – ruột cấp tính
1.Nguyên nhân:
Bệnh phổ biến xảy ra quanh năm thường thấy nhiều vào mùa hè khi thời tiết nóng và mưa ẩm ướt. Có 3 nguyên nhân có thể gây ra viêm dạ dày và ruột cấp ở chó:
Do giun móc (Ancylostoma caninum): giun móc có những móc nhọn bằng kitin cắm vào vách ruột non ở phần tá tràng, không tràng để hút máu, tạo ra những tổn thương và xuất huyết trong tổ chức niêm mạc ruột. Vi khuẩn có sẵn trong niêm mạc ruột sẽ xâm nhập vào những chỗ bị tổn thương gây thành bệnh viêm ruột cấp.
Do virus: Virus Parvo, Virus Carê khi xâm nhập vào hệ thống tiêu hóa của chó phát triển nhanh chóng, phá hoại niêm mạc dạ dày và ruột.
Do vi khuẩn : Chó ăn uống phải thức ăn và nước uống có chứa vi khuẩn thương hàn (Salmonella), vi khuẩn yếm khí (Clostridium), vi khuẩn E.Coli… Những vi khuẩn này sẽ phát triển trong niêm mạc đường tiêu hóa gây ra bệnh viêm dạ dày và ruột cấp.
2.Triệu chứng:
Vài ngày đầu chó ít ăn hoặc bỏ ăn, sốt 39,5 – 40oC, có kèm theo các cơn run rẩy. Sau đó, chó nôn mửa liên tục đồng thời tiêu chảy nặng, phân lúc đầu táo bón sau loãng có màu xám vàng, có lẫn niêm mạc dạ dày và ruột lầy nhầy, có mùi rất tanh.
Do nôn mửa và tiêu chảy liên tục, chó mất nước thể hiệûn: mắt trũng, bụng thót, da nhăn nheo. Khi bị mất nước chó không được điều trị kịp thời sẽ chết sau một vài ngày.
Thời kỳ cuối của bệnh, chó thường chảy máu ruột nên phân có màu nâu sẫm hoặc lờ đờ như máu cá. Trước khi chết thân nhiệt chó thường hạ thấp .
Thời kỳ này chó không đi được, kiệt sức, nằm một chỗ và chết.
Bệnh viêm dạ dày và ruột cấp nếu không chữa trị kịp thời, chăm sóc chu đáo thì chó sẽ chết 90 – 100% trong thời gian 2 – 4 ngày. Một số chó qua khỏi nhưng chuyển thành thể viêm dạ dày ruột mãn tính. Thể bệnh này làm chó bị gầy còm, thiếu máu do kém ăn, lúc thì táo bón, lúc thì tiêu chảy.
3.Phòng bệnh:
Cho chó ăn thức ăn nấu chín, không cho ăn thịt sống và trứng sống, vì trong thịt sống và trứng sống dễ bị nhiễm các loại vi khuẩn gây bệnh đường tiêu hóa như: vi khuẩn thương hàn, trực khuẩn yếm khí, trực khuẩn E.Coli. Không cho chó ăn thức ăn ôi thối, cho uống nước sạch không nhiễm bẩn.
Thực hiện tẩy giun sán định kỳ cho chó bằng Vimectin cứ 3- 4 tháng tẩy 1 lần để tránh gây tác hại cơ giớidẫn đến viêm ruột cấp.
Định kỳ tiêm phòng vaccine chống bệnh Carê và Parvovirus.